MANG THAI HỘ VÌ MỤC ĐÍCH NHÂN ĐẠO
1. Căn cứ pháp lý
Điều 95, Điều 96, Điều 97, Điều 98 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014.
Nghị định số 10/2015/NĐ-CP quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.
Nghị định số 98/2016/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 10/2015/NĐ-CP ngày 28 tháng 01 năm 2015 của Chính phủ quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo .
2. Nội dung
Mang thai hộ được hiểu là dùng biện pháp kỹ thuật lấy trứng của vợ và tinh trùng của chồng để thụ tinh trong ống nghiệm sau đó cấy vào tử cung của phụ nữ khác để người này mang thai hộ. Như vậy, mang thai hộ là một quá trình thực hiện các kỹ thuật y tế với những phương pháp khoa học hiện đại can thiệp vào việc mang thai tự nhiên của con người, khi quá trình mang thai tự nhiên của con người bị hạn chế bởi những nguyên nhân khác nhau.
Các điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
Việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo phải được thực hiện trên cơ sở tự nguyện của các bên và được lập thành văn bản.
- Có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về việc người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản;
- Vợ chồng đang không có con chung;
- Đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý.
- Là người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng (căn cứ Khoản 7 Điều 2 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP ) nhờ mang thai hộ;
- Đã từng sinh con và chỉ được mang thai hộ một lần;
- Ở độ tuổi phù hợp và có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về khả năng mang thai hộ;
- Trường hợp người phụ nữ mang thai hộ có chồng thì phải có sự đồng ý bằng văn bản của người chồng;
- Đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý.
Quyền, nghĩa vụ của bên mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
a. Người mang thai hộ, chồng của người mang thai hộ có quyền, nghĩa vụ như cha mẹ trong việc chăm sóc sức khỏe sinh sản và chăm sóc, nuôi dưỡng con cho đến thời điểm giao đứa trẻ cho bên nhờ mang thai hộ; phải giao đứa trẻ cho bên nhờ mang thai hộ.
b. Người mang thai hộ phải tuân thủ quy định về thăm khám, các quy trình sàng lọc để phát hiện, điều trị các bất thường, dị tật của bào thai theo quy định của Bộ Y tế.
c. Người mang thai hộ được hưởng chế độ thai sản theo quy định của pháp luật về lao động và bảo hiểm xã hội cho đến thời điểm giao đứa trẻ cho bên nhờ mang thai hộ. Trong trường hợp kể từ ngày sinh đến thời điểm giao đứa trẻ mà thời gian hưởng chế độ thai sản chưa đủ 60 ngày thì người mang thai hộ vẫn được hưởng chế độ thai sản cho đến khi đủ 60 ngày. Việc sinh con do mang thai hộ không tính vào số con theo chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình.
d. Bên mang thai hộ có quyền yêu cầu bên nhờ mang thai hộ thực hiện việc hỗ trợ, chăm sóc sức khỏe sinh sản.
e. Trường hợp vì lý do tính mạng, sức khỏe của mình hoặc sự phát triển của thai nhi, người mang thai hộ có quyền quyết định về số lượng bào thai, việc tiếp tục hay không tiếp tục mang thai phù hợp với quy định của pháp luật về chăm sóc sức khỏe sinh sản và sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.
f) Trong trường hợp bên nhờ mang thai hộ từ chối nhận con thì bên mang thai hộ có quyền yêu cầu Tòa án buộc bên nhờ mang thai hộ nhận con.
Quyền, nghĩa vụ của bên nhờ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo quy định:
a) Bên nhờ mang thai hộ có nghĩa vụ chi trả các chi phí thực tế để bảo đảm việc chăm sóc sức khỏe sinh sản theo quy định của Bộ Y tế.
b) Quyền, nghĩa vụ của bên nhờ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo đối với con phát sinh kể từ thời điểm con được sinh ra. Người mẹ nhờ mang thai hộ được hưởng chế độ thai sản theo quy định của pháp luật về lao động và bảo hiểm xã hội từ thời điểm nhận con cho đến khi con đủ 06 tháng tuổi.
c) Bên nhờ mang thai hộ không được từ chối nhận con. Trong trường hợp bên nhờ mang thai hộ chậm nhận con hoặc vi phạm nghĩa vụ về nuôi dưỡng, chăm sóc con thì phải có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con theo quy định của Luật này và bị xử lý theo quy định của pháp luật có liên quan; nếu gây thiệt hại cho bên mang thai hộ thì phải bồi thường. Trong trường hợp bên nhờ mang thai hộ chết thì con được hưởng thừa kế theo quy định của pháp luật đối với di sản của bên nhờ mang thai hộ.
d) Giữa con sinh ra từ việc mang thai hộ với các thành viên khác của gia đình bên nhờ mang thai hộ có các quyền, nghĩa vụ theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và luật khác có liên quan.
e) Trong trường hợp bên mang thai hộ từ chối giao con thì bên nhờ mang thai hộ có quyền yêu cầu Tòa án buộc bên mang thai hộ giao con.
Điều kiện cơ sở khám bệnh, chữa bệ nh được phép thực hiện kỹ thuật mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, theo Khoản 3 Điều 1 Nghị định số 98/2016/NĐ-CP , các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh sau được công nhận có đủ điều kiện thực hiện ngay kỹ thuật mang thai hộ vì mục đích nhân đạo:
- Bệnh viện Phụ sản trung ương;
- Bệnh viện Đa khoa trung ương Huế;
- Bệnh viện Phụ sản Từ Dũ thành phố Hồ Chí Minh.
Ngoài các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh nêu trên, Bộ trưởng Bộ Y tế có quyền ra quyết định bổ sung cơ sở khám bệnh, chữa bệnh đã được Bộ Y tế công nhận được thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm được phép thực hiện kỹ thuật mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Một trong những đơn vị đã được công nhận đủ điều kiện thực hiện kỹ thuật mang thai hộ vì mục đích nhân đạo bổ sung là Đơn vị hỗ trợ sinh sản Mỹ Đức – Bệnh viện Mỹ Đức (Tp. Hồ Chí Minh).
Các bên trong quan hệ sinh con bằng cách nhờ mang thai hộ vi phạm điều kiện, quyền, nghĩa vụ được quy định tại Luật Hôn nhân và Gia đình thì tùy theo tính chất mức độ vi phạm mà bị xử lý theo trách nhiệm dân sự, hành chính, hình sự.
Chính thức cho phép mang thai hộ đã mở ra nhiều cơ hội cho những cặp vợ chồng mong mỏi có con và cũng là cơ chế pháp lý cần thiết để tránh việc mang thai hộ biến tướng thành “đẻ thuê”.